Thursday, November 16, 2006

Tản mạn: Thơm

Image Hosted by ImageShack.us

Một chuỗi mùi vị tạo nên sự phong phú cho cuộc sống. "Phong phú" nghe có vẻ tích cực quá, thực ra là sự đa dạng. Cứ cho rằng một giờ đồng hồ ta lại nhận thấy một mùi riêng, vậy... Không cần dài dòng, máy tính đưa ra kết quả: 8760 mùi trong một năm. Khoa học làm cho sự việc máy móc ở chỗ đấy. Con số rất oai, nhưng thực tế là xung quanh cái góc thị đi ra đi vào mỗi ngày, căn hộ khép kín thị lấy làm nơi ẩn náu, khu vực thị dạo qua dạo lại cả năm trời, ngày nào cũng lặp lại một số mùi mà thị lấy làm một trong những nguồn vốn tạo sự đa dạng của cuộc sống.

Tuy nhiên, tất cả qua rồi. Thị chẳng dời đi đâu khác cả, nhưng quan điểm của thị đổi thay. Thị tưởng hàng ngày mũi thị hít ra hít vào cái không khí quen thuộc ấy, thị phải hiểu nó lắm. Chắc hẳn ai cũng nghĩ thế, và tin thế.

Một. Ai cũng biết xà phòng tắm thì thơm, đã cho lên người là phải thơm, và điều này rõ ràng đối với tất cả, từ những người sạch sẽ khó tính đến các đối tượng xuề xòa với bản thân. Đã ai thử để hỗn hợp loãng nước xà phòng tắm (nước sạch) qua ngày? Sạch tương đối, bởi đó ít nhất không phải là hỗn hợp đã qua sử dụng. Và hôm sau ngửi xem... Không thơm nữa, không thể coi là thơm, mà là hắc - một mùi hóa chất rất xà-phòng-tính nhưng mũi người khó để gần lâu được vì nó chẳng còn giống như nó lúc ban đầu. Thị không nhớ Hóa học nữa, không biết do trong nước có lắm thứ tạp chất hay do đặc tính của loại xà phòng, nhưng ấn tượng mỹ miều của thị về xà phòng giảm sút trông thấy. Đấy, thứ mà thị tưởng rằng thơm là bản chất mà một ngày chợt hóa ra không.

Hai. Cà phê là một thức uống, lúc được coi là dân dã, lúc lại coi là thú chơi của người sành sỏi, cao sang. Cũng là tùy cách thưởng thức, tùy loại cà phê, tùy cách pha thêm sữa, kem, đường, nhưng bản chất không thay đổi: nước cà phê được chế từ hạt cà phê nâu nâu mộc mạc. Trước đây thị ít khi dùng cà phê và cũng không thích dùng. Sáng nay trời xanh cao, nắng dịu ấm và gió hiu hiu làm tóc thị bay rung rung, thị phấn khởi quyết định đun nước và làm một nhấp cà phê. Bữa sáng trôi qua nhanh và cũng không để lại ấn tượng quá lớn vì dù sao nhiều việc phải làm choán gần hết bộ nhớ của thị. Những ngón tay lướt trên bàn phím máy tính mãi cũng mỏi, và như mọi lần, thị thỉnh thong đưa một tay lên chống cằm. Một mùi khen khét khẽ luồn qua lọn tóc bay trên má và lẩn quất quanh khuôn mặt thị. Mùi khét dễ chịu thế, nhẹ thôi mà dường như nó đưa thị ra khỏi thế giới của tường gạch, màn hình, và khung cửa sắt. Thị không mất nhiều thời gian để tìm nguồn gốc của mùi hương ấy - nó từ những ngón tay lỡ chạm vào vài hạt bột cà phê nhỏ như bụi khi thị mở gói pha nước buổi sáng. Chẳng biết do đó là cà phê Việt Nam, do tinh thần thị phấn khởi đầu ngày, hay do cà phê bây giờ đổi khác mà thị bỗng thấy ngạc nhiên khi nhận ra mình yêu mùi hương ấy. Những hạt cà phê từ xưa lưu lại trong thị một hình ảnh không hề quyến rũ - màu nâu xỉn, tròn, ngắn, và thô kệch. Khói cà phê nghi ngút bay ra từ chiếc máy pha bằng nhôm dày Đông Âu dùng từ thời bao cấp của bố để vương lại trong trí nhớ của thị một mùi khét giống như cơm khê vậy. Giờ thì khác, thị lại yêu mùi khen khét ấy của cà phê, yêu cái dân dã mộc mạc toát ra từ nó, một tình yêu đơn giản của một người thiếu chất sành. Nhưng có khác gì đâu khi tình cảm là không đong đếm so bì được, thị hài lòng với điều đó. Và... đấy, thứ mà thị tưởng thơm không phải là bản chất hóa ra lại đúng thế.

...

Thị chưa đủ chín chắn như người trung niên hay bậc phụ lão để có thể khề khà mà rằng: "Bao nhiêu người đã đi qua đời tôi. Tôi hiểu bản chất họ chứ!" Tuy nhiên, thị cũng tiếp xúc đủ để hiểu rằng bản chất không thể nào giấu giếm được. Thị, như nhiều người khác, cũng đầu tư vào nhiều mối quan hệ, và một số kết quả tiêu cực không lường trước luôn khiến con người ta sững sờ, rồi mất đi một chút lòng tin, so đo thêm một chút, nghi ngờ thêm một chút. Vậy nhưng cũng tồn tại những sợi dây thị vốn cho là mỏng mảnh thôi, hời hợt và trôi nổi thôi, lại một ngày nào đấy thể hiện sức kết nối chặt chẽ đáng ngạc nhiên. Nghĩ về mình, đơn giản lắm, thị không thể quá dịu hiền, nết na nếu đó không phải là cá tính thị sở hữu; thị không có khả năng cầm dao chặt phăng những chiếc đầu cá khi thị không bao giờ dám hé mắt nhìn; và dù là một giữa xã hội con người còn đói kém thời buổi bao cấp, thị có lẽ cũng không thể tung chân đá khiến con mèo rình ăn bay vọt từ bếp ra sân như cô Lý trong "Mùa lá rụng trong vườn". Có khi người nào cũng thế, chỉ có thể là bản thân người ta. Cuộc sống giống như những cuộc phỏng vấn - nếu anh biết anh không hợp với công việc ấy, không thích công việc ấy, anh khó lòng vượt qua khỏi những nhà tuyển dụng tinh tế, và nếu anh may (hay không may) được nhận vào làm, anh có trụ nổi một thời gian dài?

Những người đi trước, những người khôn ngoan, những sách vở, những ca dao tục ngữ khuyên con người phải biết chọn lọc, không chỉ ở các mối quan hệ mà còn ở những việc ta cân nhắc, cái nào nên làm trước cái nào, và có nên làm hay không. Ồ, tối nay thị sẽ lại đun nước pha cà phê, thị yêu cà phê rồi, yêu cái thơm tho trong bản chất của nó. Thị sẽ lại nhấm nháp, và, để xem nào, thử cân nhắc...

Sunday, November 5, 2006

Tản mạn: Thèm






Cái thèm xảy ra khi người ta không có cái mà người ta muốn. Theo lập luận này, lúc nào con người ta chẳng thèm, tuy thế có đôi lúc ta thấy thèm nhiều hơn những lúc khác.



Thèm được bận rộn và hết lòng với công việc mình yêu thích. Suốt mấy năm nay chỉ làm những việc, học những cái mà ta không có tình yêu với chúng. Lúc đầu còn tự thuyết phục (hay huyễn hoặc) bản thân rằng thì là mà... Rằng thì học mãi, làm mãi sẽ ổn thôi. Rằng thì học và làm những thứ này sẽ giúp ích cho sau này. Rằng thì phải quen sống với những ràng buộc của thực tế, mà sống suốt như thế từ lớp 1 cho đến giờ rồi có sao đâu. Nhưng cái thực tế mà ta nói tới - bao gồm tương lai, việc làm, hay cái gì tương tự thế - đều là những cái xa xôi, trong khi thực tế mà mắt nhìn thấy được, tay sờ thấy được, tai nghe thấy được, là ầm ầm những phản đối từ bản thân mình. Không tự ép mình được, cái gì thích thì kết quả tốt dù học lơ tơ mơ thôi, cái gì không thích thì có đầu tư gấp vài lần thời gian và công sức cũng không nhúc nhích lên được. Khốn nỗi cái không thích là cái chính, là ngành học đã chọn. Không rõ có bao nhiêu người cảm thấy bức bách vì mâu thuẫn giống thế, không rõ bao nhiêu trong số họ vượt được phản ứng do chính bản thân tạo ra.



Thèm rằng công việc mình yêu thích và hết lòng vì nó nuôi sống được mình. Điều này quan trọng lắm, vì đó là miếng cơm manh áo mà. Văn học Việt Nam thời 1930-45 thể hiện cảnh sống đau khổ của các nhà văn, nhà thơ khi hành nghề viết mà lòng luôn mặc cảm bởi bốn chữ "cơm, áo, gạo, tiền". Mình chẳng văn không thơ, nhưng cái thèm cũng giống như thế. Chưa đi làm thì thèm được đi làm, đi làm chịu để đế quốc - tư bản bóc lột thì lại thèm chút thời gian được là chính mình, được tung hê mọi cái nặng nề của việc công sở để hưởng thụ những đam mê nhẹ nhàng vốn là màu sắc của cuộc sống. Giá mà việc công sở là chính những đam mê ấy, giá mà những đam mê ấy giúp ta kiếm được bát cơm, mua được chiếc bút chì tốt - không yêu cầu suốt ngày gọt, mà gọt một lần là gãy vẹt cả đi, cầm được cái máy ảnh mà chụp một kiểu thôi đã ưng ý lắm rồi - không cần phải chèm chẹp tiếc vì tốc độ chụp quá chậm, để con ruồi mắt đỏ đẹp đẽ trên lá vội co chân bay đi mất... Bởi vì đơn giản lắm, "có thực mới vực được đạo", và khi lòng không yên ổn về một cuộc sống thực tế thiếu thốn ảm đạm, những đam mê trở thành xa xỉ.



Thèm học đàn. Chẳng hiểu cuộc sống nó cuốn ta đi thế nào, nhưng sao chưa bao giờ có thời gian để học đàn?! Dự định lập ra nhiều lắm, mà khi vào guồng quay thì cứ quay cuồng mãi, thời gian vùn vụt, cản trở này này chồng lấp chướng ngại kia, toàn những cái ngắn hạn trước mắt, và ước muốn dài hạn vẫn cứ xa vời. Quay lại những điều đã nói ở trên, có lẽ nó xa xỉ thật. Có bao giờ là muộn để học cái gì? Biết là đã "lỡ thì" để bắt đầu, nhưng hình như không có nghĩa là không thể.



Thèm giao lưu. Ấy thế mới lạ, cái thèm lại xuất phát từ một tính cách trầm. Do hoàn cảnh xô đẩy hay do thay đổi quan niệm mà bỗng dưng giao lưu trở thành một điều kiện cần. Gặp người chẳng nói được gì mấy theo bản tính, nhưng vẫn cần gặp. Nhiều khi đơn giản chỉ là nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc, nó nhắc nhở cho ta biết rằng ta thuộc về một nhóm của xã hội. Bỏ qua việc phân tích những lý thuyết về cái cần của Maslow, đây đơn giản có lẽ là tâm lý bầy đàn của con người, kể cả người sôi nổi lẫn kẻ hướng nội.



Ngẫm mãi rồi cuối cùng hiểu là con người ta cần những phút yên ắng giữa cuộc đời dồn dập. Vẫn là bệnh nghĩ lung quá, để tự làm mình mệt mỏi. Bây giờ thèm được không phải nghĩ gì, nhưng có ai cho rằng nghĩ là bản năng của con người, ép bản thân không được nghĩ là đi ngược lại lẽ thường? Có đến lúc nào đầu óc rỗng quá lại thèm được nghĩ không? Lại nghĩ... Lại thèm...